Tổng giáo phận TPHCM có 23 xứ đạo với tên gọi bắt đầu bằng chữ “Tân”. Mỗi danh xưng gắn liền với lịch sử thành lập, cùng nguyện ước, niềm hy vọng về những điều tốt đẹp trên hành trình chọn nơi an cư.

TÊN MỚI NƠI MIỀN ĐẤT MỚI
Tổng Giáo phận TPHCM có những xứ đạo có tên gọi được đặt mới hoàn toàn trên miền đất mới, nhưng bắt đầu bằng chữ “Tân”. Mỗi tên gọi đều hàm chứa những ước vọng, mong cầu tốt đẹp cho mai sau. Chính điều đó làm nên sự thú vị.
Đề cập đến tên gọi của giáo xứ Tân Quy, hạt Hóc Môn, thiết tưởng cần nhắc đến lịch sử hình thành từ thời sơ khởi để thấy rằng nơi đây đã được khai sinh trong bối cảnh đặc biệt ra sao. Vào khoảng năm 1800, ở làng Nhị Bình (thuộc giáo phận Đàng Trong do Đức Giám mục Lambert de la Motte làm Giám quản Tông tòa) có các linh mục thừa sai đến giảng đạo và rửa tội, bà con nơi đây dựng nhà nguyện ở khu vực ấp 3, bên cạnh bờ sông. Từ đó hình thành giáo họ Tân Quy. Năm 1866, Đ?c cha Lef?bre b? nhi?m cha Az?mar v? coi s?cức cha Lefèbre bổ nhiệm cha Azémar về coi sóc, và đến năm 1880 ngài cho dựng ngôi nhà ngói rộng lớn ở gần đường lộ (vị trí nhà thờ hiện nay) để giáo dân có nơi thờ phượng xứng hợp. Thời đó, bà con tín hữu cư ngụ rải rác xung quanh giáo đường, chủ yếu sống bằng nghề nông và chăn nuôi. Hai năm sau (1882), giáo họ Tân Quy được nâng lên hàng giáo xứ với linh mục chánh xứ tiên khởi là cha Pière - Colson. Cái tên Tân Quy của xứ đạo rặt ròng Nam bộ này tương truyền được đặt với mong muốn là nơi quy tụ bà con tín hữu trong tình yêu thương, hiệp nhất tại vùng đất mới.
Như nhiều khu vực ngoại ô vùng Sài Gòn xưa, làng Bình Trưng, Tổng An Bình, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định thuở trước là rừng chồi hoang vu xen lẫn đồng ruộng trũng. Năm 1954, theo chân cha Vinh Sơn Phạm Chí Thiện, bà con tín hữu gốc giáo phận Thái Bình, thuộc các xứ Tràng Lũ, Vân Am, Trung Đồng… với tổng cộng 60 gia đình, hơn 300 thành viên đã đến nơi này để dựng lán trại, khai khẩn đất rừng, làm nông sinh sống. Ngày 10.1.1955, cộng đoàn Tân Lập bắt đầu hình thành. Ý nghĩa của hai từ Tân Lập được hiểu là vùng đất lập nghiệp mới của đoàn giáo dân tha phương. Một trong những điều thú vị ở xứ đạo này là những nếp văn hóa đậm chất Thái Bình trong đời sống đạo vẫn được duy trì trong suốt 70 năm qua, với các truyền thống ngắm nguyện mùa Chay, dâng hoa, đọc kinh liên gia, lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ vào tháng 10, nghi thức “Mừng tuổi Chúa” và thánh lễ tạ ơn dịp tất niên trong từng giáo khu…
Không đặt theo tên địa danh, mà chọn tên gọi của giáo xứ sao cho phù hợp với hoàn cảnh là trường hợp của xứ Tân Chí Linh, thuộc hạt Chí Hòa. Đây là giáo xứ mới của 500 giáo dân gốc Bùi Chu và Hưng Yên khi theo cha Đaminh Vũ Trọng Thiên di cư vào Nam. Theo lời kể của một số bà con tín hữu, tên gọi Tân Chí Linh ra đời sau khi cha Đaminh và giáo dân bàn bạc đi đến thống nhất trong thời điểm thành lập giáo xứ vào năm 1955. Trong đó, “Tân” có nghĩa là mới, “Chí” là đất (vùng đất), Linh là linh thiêng. Từ con số khiêm tốn của thuở ban đầu, nay Tân Chí Linh có khoảng 3.000 giáo dân với đời sống xứ đạo phong phú, truyền thống văn hóa đất Bắc vẫn được lưu giữ trong đời sống phụng tự, hoặc vào các dịp lễ trọng, lễ Tết thường niên. Ai đã từng tham dự các buổi ngắm nguyện mùa Chay ở xứ Tân Chí Linh, chắc hẳn sẽ nhận ra điểm đặc trưng với hình thức ngắm mang tính vùng miền. Mỗi lượt ngắm đều có tiếng trống và lễ sinh rước người ngắm lên bàn ngắm. Người tham gia mặc áo dài trắng, đầu chít khăn tang. Sau mỗi năm ngắm là nghi thức dâng hạt giúp cho bầu khí thêm trang nghiêm, sốt sắng.

Giáo xứ Tân Hòa nằm trên đường Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận (nay là phường Phú Nhuận) xưa kia là họ lẻ của giáo xứ Bùi Phát có tên Kiến Thiết, vì nằm trong khu cư xá Kiến Thiết. Hình thành vào năm 1957, họ lẻ Kiến Thiết tọa lạc tại ấp Tây Ba, xã Phú Nhuận, quận Tân Bình, trên vùng sình lầy, um tùm bởi cỏ cây bao bọc, với số giáo dân khiêm tốn 100 nhân danh. Năm 1958, bà con họ Kiến Thiết cùng nhau dựng nên ba mái nhà tranh vách đất làm nhà Chúa trên vùng đất đã khai phá. Từ đó trở đi, cứ đều đặn mỗi Chúa nhật, linh mục Giuse Đỗ Trọng Kim, thời điểm ấy là phó xứ Bùi Phát, đến dâng lễ cho bà con. Theo thời gian, số giáo dân nơi đây tăng ngày một đông nên năm 1959, nguyện đường được xây lại bằng gạch để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Theo nhịp phát triển của giáo họ, năm 1960, Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục GP Sài Gòn nâng họ lẻ Kiến Thiết lên hàng giáo xứ vào ngày 22.8.1960 với tên mới là Tân Hòa, đặt cha Giuse Đỗ Trọng Kim làm cha chánh xứ tiên khởi. Linh mục Giuse Hoàng Kim Toan, nguyên chánh xứ Tân Hòa cho biết, Tân Hòa có ý là “miền đất an hòa mới” của bà con di cư, gần gũi với khát khao “an cư lạc nghiệp” của bà con tín hữu.
Thuộc hạt Phú Thọ, giáo xứ Tân Phú Hòa tiếp giáp với những xứ có tên gọi na ná nhau, nên dễ bị nhầm với các giáo xứ lân cận như Phú Hòa hay Phú Thọ Hòa. Giáo xứ được thành lập từ một nhóm tín hữu Hà Nội, Bắc Ninh, lúc đầu di cư đến trại tạm cư Hòa Khánh, Đức Hòa, Long An (lúc đó thuộc GP Sài Gòn), lập một giáo xứ có tên Tân Hòa (Tân là mới, Hòa là tên gọi của trại tạm cư Hòa Khánh). Do trại tạm cư bị hỏa hoạn nên linh mục chánh xứ P.X Hoàng Ngọc Quán đã đưa bà con giáo dân Tân Hòa về vùng đất sát với giáo xứ Phú Bình vào năm 1960. Sau khi ổn định về cơ sở vật chất, cha P.X xin lập xứ mới lấy tên là Tân Phú Hòa. Tên gọi này hàm nghĩa, Tân là mới, Phú là từ đầu của ba địa danh Phú Thọ Hòa, Phú Bình, Phú Trung ở trong vùng cho tương đồng, Hòa là địa danh Hòa Khánh đã định cư mấy năm trước.
Năm 1962, khoảng gần chục hộ gia đình Công giáo đến vùng Hóc Môn lập nghiệp, hình thành một giáo đoàn. Một năm sau, nhóm nhỏ này được công nhận là giáo họ thuộc giáo xứ Bùi Môn với tên gọi Tân Bùi. Năm 1967, linh mục Phaolô Đỗ Phan Kim cùng với bà con giáo dân bàn bạc việc xây dựng nguyện đường và lễ khởi công được tiến hành vào năm 1968. Ngày 7.6.1970 giáo họ Tân Bùi được nâng lên hàng giáo xứ với tên gọi mới là Tân Mỹ. Theo ông Phạm Quang Bình, Chủ tịch HĐMV, xứ đạo là nơi quy tụ dân tứ xứ và ý nghĩa của tên gọi cũng hàm chứa mong ước của cộng đoàn tín hữu. Ông giải thích, “Tân” có nghĩa là mới, “Mỹ” hàm chứa tính ngữ là đẹp, một giáo xứ mới hướng đến điều tốt đẹp là niềm mong của bà con từ những ngày đầu tiên.
Giáo xứ Tân Dân, hạt Chí Hòa xưa nằm trong vùng sình lầy, hoang vu, được biết đến với tên gọi là “khu chăn nuôi”. Theo cha sở Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Quang, xứ Tân Dân hình thành năm 1972, với khoảng 400 giáo dân. Tân Dân có ngụ ý là giáo xứ mới của người giáo dân khắp nơi tụ về. Hiện xứ đạo có 1.550 tín hữu, cha Quang là vị mục tử thứ năm của xứ đạo. Mỗi tháng một lần, Tân Dân kết hợp với địa phương trao quà hỗ trợ các gia đình khó khăn bất kể lương giáo. Bên cạnh đó, giáo xứ còn hỗ trợ chi phí học tập cho một số học sinh nghèo hiếu học, trao quà Tết gồm nhu yếu phẩm và hiện kim cho các gia đình.
Vừa liên quan đến địa danh, vừa có mối quan hệ với danh xưng nơi chốn hình thành của cộng đoàn Công giáo sơ khởi, những yếu tố này làm nên tên gọi của xứ đạo Tân Đức, hạt Thủ Thiêm, thành phố Thủ Đức cũ, nay là phường Phước Bình. Theo lịch sử ghi chép lại, vào thời điểm những năm đầu của thập niên 70, một cộng đoàn Công giáo quy tụ nơi đây. Để chăm lo đời sống tinh thần của gần 500 tín hữu, một nhà nguyện đơn sơ lợp tôn xi măng được lập nên. Đến ngày 4.7.1972, giáo xứ Tân Đức được thành lập do văn thư của Tòa Tổng Giám mục, và cha Antôn Khổng Tiến Giác được bài sai làm chánh xứ tiên khởi. Chữ Đức trong tên xứ lấy từ chữ Đức trong tên gọi địa danh hành chánh Thủ Đức, và cũng là mong ước ghi dấu về sự khởi đầu cho một cộng đoàn Dân Chúa đạo đức, sốt mến. Chữ Tân chỉ vùng đất mới.
BÍCH VÂN
Bình luận