Q. là cậu học trò sáng sủa, nhiệt huyết và nổi bật trong lớp chuyên văn năm nào. Tôi thật ấn tượng trước những câu hỏi khó mà Q. đặt ra với tôi trong tiết thỉnh giảng ngắn ngủi thoáng qua. Những câu hỏi xâu chuỗi rất nhiều kiến thức mà cậu học trò lớp 10 tự học và cho thấy một khả năng biết hoài nghi, biết suy tư sâu, biết nghi vấn trước những thách đố của đời sống - điều rất hiếm gặp nơi các cô cậu học trò “thế hệ fastfood”.
Tôi còn nhớ sau buổi học, Q. đứng ở hành lang chờ tôi và cẩn thận ghi địa chỉ email của tôi vào cuốn sổ tay. “Con muốn gởi thầy một bản thảo nhờ thầy đọc, góp ý...”, Q. nói. Là người khe khắt và có phần nghiệt ngã trong chuyện văn chương, thường thì tôi không hy vọng mấy vào các bản thảo học trò, cho đến khi nhận một email rất dài của Q. cùng một file bản thảo có gần 200 bài thơ “đầu tay” khá trau chuốt, thì tôi buộc phải chú ý và nghĩ ngợi.
Tôi nhận thấy điều gì đó bất thường, không phải bởi chất lượng văn chương của tập thơ, mà bởi bức thư điện tử của cậu học trò tâm huyết với chữ nghĩa gởi cho tôi đang có những tiết lộ đầy day dứt của một tâm hồn cô đơn. Và 200 bài thơ với những ngôn từ ngây ngô có, tăm tối có, kiếm tìm vô vọng có, khắc khoải và bế tắc có, rộn ràng với những niềm vui chóng vánh phù du có - chính là những gì Q. trải qua suốt quãng thời gian dậy thì.
Rồi tôi cũng lịch sự hồi đáp với cậu học trò bằng những cảm nhận vừa đủ tế nhị và khuyến khích không chỉ trong viết lách mà cả cách nhìn cuộc sống rộng mở. Tôi dẹp đi những thước đo khắc nghiệt và lạnh lùng của văn chương để động viên cái bản ngã xáo trộn và có thể nói là khủng hoảng phía sau mỗi câu chữ. Dù tôi không thực hiểu điều gì đẩy một cậu học trò thoạt trông sáng sủa vui tươi vào một bế tắc u uẩn như vậy.
Một tiểu thuyết nữa được Q. gởi cho tôi sau đó. Và lần này, tiểu thuyết bắt đầu bằng một nhân vật trẻ chọn cách chủ động rời bỏ cuộc sống. Tôi nhận được tập bản thảo vào đúng thời điểm mà chính tôi cũng loay hoay thu dọn những ngổn ngang của một cuộc khủng hoảng thời trung niên của mình. Tôi, lần này, đã viết thư trả lời cậu học trò nhỏ với một vài dòng hứa hẹn rằng sẽ đọc kỹ, sẽ góp ý. Tôi khuyên cậu hãy viết, nếu xem việc viết là một phương thế tự bộc bạch và nội trị.
Sau lần đó, thì tôi không còn nhận được email nào của Q. nữa. Công việc bận rộn cũng khiến tôi phải từ chối mọi dịp đứng lớp chuyên đề ở các trường chuyên, giảng đường trong thành phố. Nhưng nhiều khi nhắm mắt nghĩ về tương lai với mơ ước viển vông sẽ làm ông giáo gõ đầu trẻ ở một làng quê yên bình, tôi lại nhớ từng lớp học, từng cô cậu học trò đã để lại trong mình nhiều ấn tượng. Lẽ dĩ nhiên, trong số đó, có Q. Tôi cũng nhiều lần thăm hỏi các thầy cô về việc chọn lựa ngành học, con đường vào đời của tụi nhỏ. Nghe đứa này đi du học, đứa kia được tuyển thẳng, đứa nọ thành công..., thấy cũng an tâm phần nào.
Thế rồi một ngày gần đây, khi nhắc về Q., thì cô giáo dạy văn chết lặng một lúc, rồi nước mắt trào ra. Tôi đã vô tâm khơi lại một mối ám ảnh, một vết thương chưa lành trong tâm hồn cô.
“Vào đợt cao điểm của dịch bệnh, Q. chọn rời bỏ cuộc sống bằng một sợi dây thừng...”, cô giáo nói, “Thầy cô, học sinh trong trường đều thấy bàng hoàng và xót xa anh ơi...”.
Tin tức về sự ra đi của cậu học trò cũng đánh gục tôi trong hàng tháng trời. Những gì tôi có thể biết thêm sau quyết định rời bỏ cuộc sống của chàng sinh viên năm thứ hai ngành ngữ văn, đó là dư chấn sự sụp đổ của một cuộc hôn nhân. Sau khi ba mẹ chia tay, Q. rơi vào cuộc sống cô độc; tâm hồn trở nên mong manh và chao đảo gần như không điểm tựa. Sự hơn thua của người lớn trong việc tranh giành quyền sở hữu đứa con khi gia đình tan vỡ càng đẩy đứa bé sâu vào bế tắc. Bi kịch lại rơi vào đúng thời điểm nhạy cảm nhất của cuộc đời Q. - giai đoạn dậy thì.
Thật khó có thể hình dung một cậu học trò sáng sủa hòa nhã và đầy nhiệt huyết lại mang trong tim một vết thương không thể tự chữa lành. Cậu học trò yêu văn chương mà tôi biết đã một mình trầy trật đi qua tuổi dậy thì đầy sóng gió với nụ cười hiền lành, sự tha thiết lý tưởng cái đẹp. Nỗi đau và sóng gió được che đậy bởi những gì thật trong trẻo, hòa ái. Và vào đúng lúc mà lý thuyết của bộ môn tâm lý học sư phạm dạy rằng yên tâm đi, tâm hồn cậu đã đi ra khỏi cơn bão để dần định hình, trưởng thành, thì hoàn lưu cơn bão lại ập đến. Cậu đã chọn cách buông mình vào cái hố thẳm đen tối mà có lẽ đã rất nhiều lần cậu từng sẩy chân, rồi một thân một mình khó nhọc leo lên với con tim còn nhịp đập ham sống, với vài hy vọng còn vực lại được trong tâm hồn đầy bão tố.
Tôi tìm lại những email mà cậu học trò chuyên văn năm ấy gởi cho mình. Tôi đọc đi đọc lại trong những ngày tháng day dứt nặng nề. Đã có khi tôi tự trách mình lẽ ra nếu không đứng về phía dòng chảy vội vã của cuộc sống, lẽ ra mình vững vàng hơn thì đã có thể trở thành một chỗ dựa, một hy vọng để cậu học trò tuyệt vọng kia bám víu vào mà đi qua những vũng xoáy giữa dòng đời khốc liệt. Và cũng có lẽ như những cô giáo, thầy giáo thân thiết của Q., tôi trách móc vì những cảnh báo từ bộ khung lý thuyết của môn Tâm lý học lứa tuổi đã không tính đến những ngoại lệ đau xót. Là những người dạy học, chúng tôi có khi chỉ mang kiến thức đến cho trẻ, không thể đem đến một sự chia sẻ và khả năng đồng hành. Rồi tôi cũng lại nghĩ tới lời cô giáo của Q.: “Biết làm sao được khi ngay cả chúng ta, những tâm hồn duy tình và duy mỹ, có khi cũng chới với trước cuộc đời tàn nhẫn. Có những chiều, chính bản thân mình cũng không thể đi qua được một cây cầu khi thấy bên dưới một dòng nước chảy xiết...”.
Cô giáo bảo rằng, bây giờ đứng lớp, cô bàng hoàng bất an khi một cánh tay học trò đưa lên và đặt ra một câu hỏi xám. “Câu hỏi xám là gì?”, “Là câu hỏi chạm vào khoảng bất an nhất trong ta. Ta biết rằng bọn nhỏ đang ở trong tâm bão...”, cô giáo nói.
Áp lực thành tích, phải đáp ứng kỳ vọng của người lớn, phải gánh chịu những thương tổn từ các rạn nứt, tan vỡ do người lớn tạo ra khiến bọn trẻ mệt mỏi và mất tin tưởng vào tương lai. Nhất là chúng rất dễ lạc lối vào một thế giới dễ mất kiểm soát của Deep Web, Dark Web, khi ngay từ thơ ấu, cha mẹ chỉ biết giao cho con cái những chiếc điện thoại, máy tính với những chiếc màn hình đen cho những ngón tay non nớt của con cái mình mày mò khởi động, kiếm tìm...
Điều mà cô giáo khiến tôi lo lắng hơn, đó là trong các tiết dạy, mỗi khi nhắc đến sự ra đi của Q., thì có những học sinh bày tỏ sự nể phục vì đàn anh của mình đã dám tự quyết định mạng sống một cách quyết liệt.
“Vậy cô phải làm sao?”, tôi hỏi.
Cô giáo lặng lẽ, không thể đưa ra một chọn lựa chung quyết nào. Những gì đã qua khiến tôi và cô cảm thấy khó có thể nói trước được điều gì, ngoài những nỗ lực nếu có một dịp nào đồng hành cùng những đứa trẻ tổn thương quanh mình.
Trong câu chuyện, chúng tôi vẫn thường nhắc đến những cuốn sách chữa lành. Một lần nào đó, chúng tôi nhắc đến Haruki Murakami. Ông đã viết trong một cuốn tiểu thuyết đầy những tình tiết tàn khốc và khủng hoảng, rằng: “Và một khi cơn bão đã đi qua, bạn sẽ không còn nhớ vì sao bạn lại vượt qua được nó, làm cách nào mà bạn lại sống sót. Bạn thậm chí còn chẳng thể chắc rằng, liệu cơn bão đã thực sự kết thúc chưa. Nhưng chỉ có một điều là chắc chắn. Một khi bạn đã đi qua cơn bão, bạn sẽ không còn là con người của trước đây. Ý nghĩa của cơn bão là vậy đó”.
Nhưng này ông Haruki Murakami, làm sao để con người ta có thể sống sót và có những kinh nghiệm đầy sáng suốt về ý nghĩa của cơn bão, nếu như trong tâm bão lại thiếu một điểm tựa, một sự đồng hành?
Tùy bút của NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Trích từ bản thảo Ngang qua Vườn Cây Dầu]
Bình luận