Có thể nói ngay, nếu nhận định như tựa bài là cố ý nhập nhằng về khái niệm, khi quy hết thảy văn - hóa - người - Việt chúng ta chỉ vào mỗi vốn liếng chữ Hán.
1. Khi đọc chữ Quốc ngữ, chẳng hạn, “hoàng” thì ắt phân vân không rõ “hoàng” là màu vàng hay “hoàng” là ông hoàng (vua), hoặc “hoàng” trong kinh hoàng…? Một ví dụ khác: viết chữ “thiên” thì không biết “thiên” là trời hay “thiên” là một ngàn. Người cổ súy Hán tự sẽ có dịp lên tiếng ngay: đó, nếu viết/biết chữ Hán thì đâu rơi vào sự mờ mịt như rứa. Thậm chí, có người còn “nâng quan điểm” cho rằng cắt đứt Hán tự là “gãy” truyền thống, “đứt đoạn” với truyền thống (?). Phần lớn những người không biết chữ Hán thì rất dễ bị hớp hồn trước những lập luận như vậy, tưởng người ta nói đúng.
|
Trách nhiệm gìn giữ và chắt lọc di sản chữ Nôm (vì chứa được quốc âm), trước hết, thuộc về chính sách quốc gia ưu đãi cho những ai có tâm huyết (trong hình là công việc bảo tồn và “số hóa” di sản chữ Nôm tại Nghệ An) |
2. Xin dẫn giải vài chữ :
* Cũng mượn tỉ dụ trên, cũng đọc âm “thiên”, trong chữ Hán có tới... 32 ký tự viết. Tức có hơn 30 chữ Hán viết khác nhau xa lắc nhưng đều đồng âm là “thiên” - trong đó có ký tự 千.
千 “thiên”: có cái nghĩa “một ngàn”, chữ Hán rõ rành quá phải không? Chưa chắc, chữ 千 này đâu chỉ có nghĩa “một ngàn”, còn có nghĩa là “quá mức” (tỉ như 千難 “thiên nan” nghĩa là “khó quá mức”), lại còn có nghĩa như thế này nữa mới sái não: “thu thiên” 秋千 không phải nghĩa là “ngàn thu”, mà ở đây nghĩa là “cái đu” nhún lên nhún xuống.
* Rồi, ký tự 天 cũng đọc là “thiên”, nhiều người biết mặt chữ này, nói nghĩa là “trời”, chữ Hán đâu ra đó chớ còn gì nữa? Không phải vậy đâu. Cái chữ “thiên” này 天 còn làm sái não hơn “thiên” 千 vừa dẫn trên. “Thiên” 天 có tới 15 nghĩa khác nhau. Nghĩa là: “trời”, “bầu trời” (không gian)/ “ông trời” (chúa tể muôn vật) / “ngày” / “mùa” (danh từ chỉ thời tiết)/ dùng để chỉ hình phạt khắc chữ vào trán/ “rất, vô cùng” .v.v...
* Với một trường hợp khác, cũng đọc âm “hoàng”, nhưng lại có đến 34 chữ Hán viết khác nhau nhưng đều đọc giống nhau! Trong đó, có ký tự 皇 “hoàng” là ông vua (trong “hoàng đế”), có ký tự 黃 “hoàng” là màu vàng. Tới đây, người cổ súy Hán tự sẽ lại có ý kiến: đó, mỗi ký tự rõ rành, đâu mà nhầm lẫn? Kỳ thực là dễ nhầm lẫn đến… hoang mang! Ký tự 皇 viết khơi khơi, đố ai dám chắc mang nghĩa “ông hoàng”. Là sao? Vì “ông hoàng”, thực ra, chỉ là 1 trong 14 nghĩa của mỗi ký tự 皇. Nhiều nghĩa khác nhau cỡ bắn đại bác không tới, rất “quái”, cùng viết 皇 mà nào nghĩa là “ông hoàng”, nghĩa là “bầu trời”, rồi lại có nghĩa là “nhà không có bốn vách”, nhà trống hoác, hoặc có nghĩa là “chỗ trước cửa buồng ngủ”… Tương tự, ký tự 黃 viết mình ên, đâu ai dám chắc mang nghĩa “màu vàng”? Bởi ký tự 黃 ngoài nghĩa “màu vàng”, còn có những nghĩa là “thất bại”, “đồi trụy”, rồi nghĩa là “già lão”…!
Mới liệt kê 2 ký tự (皇, 黃), trong 34 ký tự đều đọc âm “hoàng”, mà đã lủ khủ nhiều nghĩa.
|
Di sản chữ Nôm còn được tìm thấy nơi kiến trúc nhà thờ (trong hình là nhà thờ Đại Ơn ở Chương Mỹ, Hà Nội). Thư tịch chữ Nôm trong Công giáo rất nhiều |
3. Đồng âm dị nghĩa, nên nhớ, là hiện tượng bất luận ngôn ngữ nào cũng có. Tiếng Việt, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp... đều xảy ra hiện tượng như vậy. Nhưng ở Hán tự thì đồng âm dị nghĩa nhiều tới mức “sái não”! Trong khi đó, nếu đọc chữ Quốc ngữ “h-o-à-n-g” (mà không có ngữ cảnh đi kèm), chúng ta chỉ phân vân trước số nghĩa khác nhau đếm trên đầu ngón tay. Vậy thì, nếu Việt Nam không có chữ Quốc ngữ, mà học Hán tự như hàng bao thế kỷ trước kia, nội một ký tự 皇 “hoàng” (không có ngữ cảnh đi kèm), biết cái chữ này nghĩa gì trong 14 nghĩa? Tổng hợp 34 ký tự (Hán tự) đồng âm “hoàng”, bét lắm cũng khoảng 100 nghĩa, há chẳng phải phải nhíu mày, phân vân, bóp óc, sái não để tìm ý nghĩa, nặng nề như lãnh búa tạ sao?
4. Có thể nhận ra điều gì ?
4a) Về ngữ âm: Chữ Hán thích hợp với tiếng Hoa, nhưng “bất lực” trước tiếng Việt, vì chỉ có thể chứa được âm Hán - Việt mà không chứa được di sản quốc âm (Nam âm).
4b) Về ngữ nghĩa: Chữ Hán xảy ra tình trạng một ký tự thường có nhiều nghĩa, thậm chí rất nhiều. Điều này gây khó khăn không ít cho việc “nhận diện” ngữ nghĩa.
5. 5a) Thời xưa, biết chữ Hán là giới thầy đồ, giới quan quyền (quan văn, quan võ), vua chúa... Giới bình dân người Việt phần lớn “mù chữ” về Hán tự, mà do vậy lại càng ít hiểu biết về Hán học. Bước vô chùa, vô đình đền, những hàng chữ Hán thì họ đâu biết đọc, thảy đều nhờ thầy đồ giải thích. Vậy thì, chúng ta có bị “gãy” truyền thống văn hóa không? Ắt là KHÔNG! Vì nếu “gãy” thì đã “gãy” từ lâu rồi (đa phần dân chúng đâu biết chữ Hán), chớ không phải đợi tới thời cận đại, hiện đại.
Sở dĩ người Việt Nam không “đứt đoạn” hoàn toàn với truyền thống, là bởi vì truyền thống bao trùm rất rộng - trong nghệ thuật diễn xướng dân gian, trong văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục, đặc biệt trong ca dao truyền khẩu .v.v… - chớ không phải quy hết thảy văn - hóa - người - Việt vào mỗi vốn liếng chữ Hán mà thôi.
5b) Bổn phận, cũng có thể gọi là sứ mệnh nghiên cứu di sản Hán - Nôm (nhấn mạnh: đặc biệt là chữ Nôm) trong các thư tịch Việt ngày trước, được đặt vào giới trí thức, đặc biệt là những chuyên gia ngôn ngữ học! Vậy nên, rủi có bị “đứt đoạn truyền thống” như nhiều người lo lắng, thì trách nhiệm lẽ nào nằm ở bà con người Việt (làm đủ thứ ngành nghề mưu sinh), chỉ vì họ không biết chữ Hán?
Nguyễn Chương
Bình luận