“... như đồng lúa gặt xong
như rừng núi bỏ hoang
người về soi bóng mình...”
(Trịnh Công Sơn)
|
Đường đến nhà nguyện thánh Madalena |
Vùng ReinMain cách trung tâm Frankfurt 20 phút tàu điện; là những khu dân cư cũ mới đan xen dọc bờ sông Main.
Mùa thu, đạp xe đi theo con đường mòn ven bờ sông ngắm những rừng phong lá trở vàng trong nắng lạnh, những bến sông về chiều có bầy thiên nga trắng như vừa bơi vừa mộng mị, ngỡ đi lạc vào trong không gian bản concerto số 3 trong tác phẩm Bốn mùa của Vivaldi.
Chúng tôi đi qua những vườn nho, nhìn thấy một pháo đài còn sót lại chơ vơ trên sườn đồi có lối kiến trúc thời Trung cổ. “Thổ địa” đi trước, khách thở hồng hộc dắt xe theo sau, men theo con đường mòn khá dốc để đến một ngôi nhà nguyện bỏ hoang.
Ngôi nhà nguyện đó nằm ẩn mình sau những cây tùng, những bụi rậm và cỏ gai um tùm, gợi cảm giác hoang liêu tịch mịch. “Từ lâu không có lễ”, “thổ địa” nói, “chỉ là một nhà nguyện nhỏ được xây để tưởng niệm những người trong xứ này đã hy sinh trong Thế chiến thứ hai”.
Một tấm bia đắp nổi ở bên cánh trái cửa ra vào nguyện đường. Màu đá đen, nét chữ khắc rất mảnh, qua thời gian phủ biết bao nhiêu lần rêu phong, băng tuyết, mưa nắng, đã không còn rõ ràng. Nhưng có thể nhận ra và đoán phần nào trước mỗi cái tên là tên thánh, được viết theo tiếng Ðức.
“Từ lâu không có thánh lễ”, “thổ địa” nhắc lại và rít một hơi thuốc, phả khói bay trong không gian buổi chiều lạnh lẽo, rồi tiếp: “Nhưng thỉnh thoảng đạp xe qua đây dừng lại nghỉ mệt, thấy cũng có mấy ông bà già đến ngồi trầm lặng, mắt nhìn lên thánh giá. Giữa cảnh rừng u tịch này thì chắc họ cũng tìm thấy sự bình lặng trong tâm hồn. Mình không hỏi, nhưng chắc họ cũng thầm thì cầu nguyện. Rồi ra đi, lặng lẽ, như một lữ khách”.
|
Nhà nguyện thánh Madalena |
“Thổ địa” lại rít thuốc, thỉnh thoảng ho sù sụ. Ngó thấy khách khoanh tay, làm dấu, lẩm nhẩm đọc mấy kinh, “thổ địa” cười: “Ðạo đức dữ cha nội”. Khách xin Chúa cho dừng đọc kinh một phút để đáp lại: “Cũng chẳng đạo đức chi. Bỏ lễ nhà thờ nhiều, nay gặp Chúa trong rừng lạnh lẽo vầy, thấy rùng mình, cảm động quá!”.
Thế rồi hai gã tóc bạc (một bạc ít, một bạc nhiều) ngồi nói câu chuyện giữ đạo theo cách người Việt mình và theo cách “tụi Tây”.
“Thổ địa” là dân Sài Gòn rặt, đi du học Ðức từ trước 1975, rồi kẹt lại đó, làm chuyên viên kỹ thuật. Sống bên Tây mà tâm trí bên Ðông, nên suốt ngày cứ nghĩ chuyện “rụng về cội” sớm cho xong. Nhà “thổ địa” có em là linh mục, nhưng “thổ địa” nói, từ khi sang đây ăn cơm Tây, làm việc với Tây, thiếu điều lấy vợ Tây, đám trí thức Công giáo như anh giữ đạo theo lối dân Tây, thường đi đến nhà thờ như đến công viên, tìm chút tĩnh tại nội tâm rồi về, ít khi vào bên trong hay thực hành nghi thức. “Mình chẳng biết ông cha xứ mình mặt tròn hay méo, mũi lỏ, da đen hay da vàng. Tóm lại là ông em mình cứ nhắc nhở suốt, nhưng mình bảo mình vẫn duy trì cuộc đối thoại thường xuyên với Chúa ở trong rừng, ở trại nho hay trên đường đạp xe dạo,... chứ mình đâu có bỏ Chúa đâu. Bằng cách thế đó, mình cũng thấy Chúa thật gần, đồng hành với mình những lúc lẻ loi”, “thổ địa” nói, và lại rít thuốc.
Khói trắng bay tan vào sương chiều.
Mấy hôm trước, “thổ địa” cũng dẫn khách đi thăm mấy ngôi nhà thờ lớn ở các vùng ven thành phố Frankfurt. Có lẽ về độ cổ kính, trang nghiêm thì hơn xa các nhà thờ xứ nhiệt đới bên mình. Nhưng sự vắng lặng, lạnh lẽo có thể cảm nhận được rõ ràng đến từng tiếng lá vàng tiếp đất. Vài ngôi nhà thờ được cho các tôn giáo bạn như Phật giáo, Hồi giáo thuê lại, vì lâu không có giáo dân lẫn linh mục, không lúa lẫn thợ gặt. Có nhà thờ níu kéo các giáo dân già cả lụ khụ tìm đến bằng các đêm diễn xướng thánh ca, cả những buổi trình diễn nhạc cổ điển. Âm nhạc của Johann Sebastian Bach, của Felix Mendelssohn vang lên, nâng tâm hồn con người gần lại với cảnh giới thánh thiêng đang phai nhạt. (Rồi chẳng biết âm nhạc có đủ neo những con chiên hiện đại trở lại với nhà thờ hay không, hay lại xiêu tán vạn nẻo trong một thế giới “ôm rách nát trong tâm linh” ?).
Con đường mòn đi qua đồi nho mênh mông lại có một nhà nguyện tí hon, bên trong có bức tượng Ðức Mẹ. Cái nhà nguyện xinh xắn nằm chơ vơ bên đường giống như một cái am bên đường ở nơi xứ mình. Nghe nói, dân trồng nho ở đây đã lập bàn thờ để cầu Ðức Mẹ chúc phúc cho nghề trồng nho thuận lợi. Và chắc cũng nhờ Mẹ ban ơn, nghe nói ở vùng này có nhà máy rượu vang hữu xạ tự nhiên hương, đến Hoàng gia Anh cũng trở thành khách hàng trung thành lâu nay của làng.
Khách nói rằng, không biết bao nhiêu thế hệ trồng nho đã quỳ gối nơi đây để khẩn cầu, trước bức tượng Ðức Maria ngoài đồng sương gió này. Nhưng những gì còn đọng lại như một dấu tích về một cộng đồng đức tin xưa cũ. Tin rằng nguồn mạch tâm linh vẫn còn được dưỡng nuôi đâu đó dẫu là đơn lẻ ở cái nơi mà mở mắt ra là được nhắc nhớ dụ ngôn cành nho và thân nho.
|
Tác giả trước nhà nguyện kính Đức Mẹ Maria |
“Thỉnh thoảng cũng có người mang rượu nho, bánh trái đặt vào bàn thờ cho mẹ”, “thổ địa” nói, làm khách nghĩ rằng, rượu nho ngon vậy nhưng tiếc thay, Kinh Thánh đâu có kể chuyện Ðức Mẹ uống rượu bao giờ, kể cả trong tiệc cưới Cana?
Rồi chúng tôi đi qua một khu rừng tối. Những cây bụi lá thấp trông ủ rũ trong chiều muộn sương xuống mỗi lúc một lạnh giá. Lúc dừng dưới những cây óc chó và nhặt những quả khô, thưởng thức những món quà miễn phí từ rừng, “thổ địa” nói, còn một ngôi nhà nguyện nữa, nhà nguyện kính thánh Madalena. Ðó là ngôi nhà nguyện vắng cũng nằm bên con đường mòn, dưới những bụi cây gai khẳng khiu. Từ trên đồi cao nhìn xuống, thi thoảng trên con đường mòn mảnh như sợi chỉ trắng băng qua vạt cỏ xanh, có thể nhận ra những bóng người nhỏ nhoi lặng lẽ đi dạo và đến nghỉ chân bên bậc thềm. Nơi đó là một phần của công viên rừng.
Mỗi nhà thờ, bàn thờ, nhà nguyện nhỏ nằm lẩn khuất trong cánh rừng, trên đồi nho tĩnh lặng và như chấp nhận lãng quên qua thời gian. Nhưng đó lại là điểm nhấn cô lẻ treo chiếc áo đức tin ở một vùng nửa hẻo lánh xa xưa nửa hiện đại tân kỳ. Trên bước đường lang thang, khách đã đi qua biết bao ngôi giáo đường phế tích, những giáo đường bỏ hoang, nhưng có vẻ như các dấu chỉ của đời sống cộng đồng có đức tin đó đều mang lại một cảm xúc đầy ấm áp giữa chuyến lang bạt.
“Thổ địa”, người đàn ông tuổi sáu mươi đã bốn lần mổ tim, lúc bấy giờ ngồi lặng trước bậc đá nhà nguyện lấy bổn mạng là người đàn bà đã được Chúa xá hết tội nhờ biết sống theo con tim rung động yêu thương. Bờ vai người đàn ông từng trải tha hương chợt khùm xuống, dáng ngồi nhỏ nhoi và cô độc.
Anh đang nguyện cầu điều gì với người đàn bà nên thánh chỉ vì biết yêu?
Còn tôi, tôi chỉ là một người khách đến đây rồi đi, tôi sẽ thầm thì với bà ấy điều gì?
Những cuộn lúa mì quấn bện vào nhau thành những bánh xe lớn trên cánh đồng đã gặt xong trống huơ trống hoác đang nói với tôi về một dụ ngôn “lúa chín đầy đồng” thuở nào xa ngút ngái trên trang Kinh Thánh.
Trong tôi chợt vang vọng câu hát “người về soi bóng mình/ giữa tường trắng lặng câm” vào lúc này.
Trong cuộc sống đức tin và nỗi cô độc kiếp người, có bức tường trắng nào cho chúng ta soi tìm bóng mình hỡi bạn già của tôi - “thổ địa” đơn côi nơi xứ người?
Tùy bút của NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Trích từ bản thảoNgang qua Vườn Cây Dầu]
Bình luận