Thời xưa, nhiều gia đình nuôi heo đất. Heo đất bình dị, xinh xinh tự lúc nào trở thành nét văn hóa mộc mạc trong đời sống. Ngày nay, heo đất mai một và rơi vào quên lãng. Nó bị cạnh tranh khốc liệt bởi heo nhựa với vô số kiểu mẫu cách tân đa dạng. Cận Tết, phải đỏ mắt tìm mua một con heo đất nguyên bản như xưa…
ĐI TÌM KÝ ỨC
Ngày trước, thị xã Lái Thiêu (tỉnh Bình Dương) nổi tiếng về làng làm heo đất với đủ quy trình từ lúc quậy đất đến đổ khuôn, nung rồi vẽ trang trí. Nhiều khách tới đây mua cũng như tham quan, tìm hiểu cách làm ra sao, như thế nào. Đó là thời kỳ vàng son của heo đất. Đến Lái Thiêu hôm nay, vào con đường gần đình Phú Long, nơi làm heo đất một thời có tiếng chỉ còn hai cơ sở. Họ gia công vẽ, trang trí và đem bán chứ không có điều kiện thực hiện đủ mọi quy trình như ngày cũ. Heo đất được đổ khuôn và “hầm” ở huyện Tân Uyên rồi phân phối về một số nơi làm công đoạn vẽ thành phẩm. Con đường làm nên mặt hàng này trở nên lòng vòng, các bước bị chia nhỏ và ngắt quãng so với trước.
|
Heo đất được cho vào lò để nung |
Chịu khó đi lên huyện Thủ Dầu Một rồi rẽ vào đường Lò Chén, khu 7, phường Chính Nghĩa thì may mắn hơn khi tìm được hai nhà từng làm heo đất. Ghé gia đình bà Lý Xuân (59 tuổi) gắn bó với heo đất từ năm 1990 đến năm 2000, chúng tôi được nghe về một không gian xưa. Đất sét được xe tải chở đến, phơi khô, ngâm trong nước cho rã, lược bỏ bã rồi quậy cùng keo silicat. Trung bình người thợ quậy khoảng 2 tiếng là được theo công thức “2 đất 1 nước”. Sau đó, họ đổ vào khuôn, canh thời gian để trút trở ra, phơi khô, rồi đem nung khoảng 12 tiếng. Đây là khâu khá vất vả vì để tiết kiệm thời gian, gia đình bà Xuân buộc phải nung vào ban đêm, chụm lửa đến 800 độ C, thăm chừng thường xuyên cho khỏi bị cháy. Thời đó, bà cùng chồng và bốn người con cùng làm heo đất, trung bình mỗi ngày được 200-300 con, mỗi con lời vài trăm đồng nhưng được cái bạn hàng nhiều nên heo đất trở thành nguồn thu nhập chính của cả nhà. Sau vài năm ổn định, đầu ra trở nên thưa thớt, heo bị bể hoặc cháy nhiều, lại thêm thiếu người làm công đoạn sơn vẽ nên bà Xuân giã từ nghề. Nhớ lại, bà chia sẻ: “Lúc đó chúng tôi cũng suy nghĩ, cân nhắc lắm khi không làm heo nữa. Con cái đứa đi học đứa đi làm chẳng còn ai phụ, hai vợ chồng mần thì cực. Mà heo đất khó chất trong lò nung vì nó không bằng phẳng, chiếm chỗ nhiều sẽ hao củi, vợ chồng tôi đành bỏ nghề”.
|
Ông Lý Thổ đã chuyển sang làm chậu cảnh nung |
Cách bà Xuân vài căn là nhà ông Lý Thổ (71 tuổi) cũng từng có 7 năm làm heo đất. Ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Liên (61 tuổi) khởi nghiệp năm 1994 sau khi đã học hỏi, xem người khác làm. Ông Thổ cụt một tay và một chân năm 28 tuổi nên không thể làm nhiều, mỗi ngày hai người đổ được khoảng 100 con. Con cái chỉ phụ các việc lặt vặt như ngâm đất, chất heo vào lò chứ không phải thợ chính như ông và vợ. Vào mùa mưa việc phơi đất rất vất vả, đất phần lớn chưa khô nên phải quậy mất thời gian gấp đôi, kéo theo năng suất giảm một nửa. Do sức khỏe chồng có hạn nên bà Liên thường là người chụm lửa nung và mang vác heo đất đi phơi. Chính vì thế, việc sản xuất với ông bà khó khăn, nặng nhọc hơn các gia đình khác khá nhiều. Ngày đó, giá một con heo loại nhỏ bán ra chỉ 500 đồng/ con, loại lớn hơn thì 1.000-2.000 đồng/ con, trừ chi phí mua đất, keo, củi, thu lời độ chừng 1/3. Làm một thời gian, thấy heo đất chỉ bán rộ vào dịp Tết, ngày thường bán lai rai dễ bị ế, lời ít mà nguy cơ hụt vốn cao nên ông bà chuyển nghề. Ông Thổ cho biết: “Làm heo đất cực quá, mà tay chân tui thế này không thể nhanh nhẹn, khỏe mạnh để quậy đất và chụm nung, để bả làm một mình hoài cũng tội nên vợ chồng tui quyết định làm chậu cảnh cho dễ sống hơn”. Những con heo đất còn dư bị xếp xó, cũ kỹ, bụi bặm, một thời rầm rộ ở thị trường giờ nằm “tủi thân” ở góc sân buồn héo hắt.
MỎNG MANH Ở NGÀY MAI
Hiện tại, hai vợ chồng bà Xuân sản xuất chậu cảnh từ đất sét. Quy trình tương tự như heo đất nhưng tiện hơn ở chỗ chất vào lò vì sản phẩm gọn, bằng phẳng và không phải vẽ, sơn phết gì cả. Lợi nhuận thu được từ nguồn này ổn định và có giá thành cao hơn heo đất. Gợi nhắc chuyện bỏ làm heo đất lúc xưa, bà nói: “Hai đứa con gái giờ lấy chồng, hai đứa con trai, một làm thầy giáo, một làm điều dưỡng, nếu còn làm heo chắc chắn hai người già tụi tui sẽ không kham nổi vì không có nhân công. Làm chậu kiểng, tượng thờ dễ và nhanh hơn, vừa với sức khỏe”. Cảm nhận, suy nghĩ về việc không có người kế thừa nghề nghiệp sau này, bà tiếp lời: “Tôi cũng đã nghĩ. Lớp trẻ bây giờ học chữ nghĩa rồi làm này nọ, ít chịu nối gót nghề của cha mẹ. Không đứa nào muốn tiếp tục hay có ý định vực dậy. Chắc là mất gốc luôn quá...”. Heo đất truyền thống đang bị mai một. Những cơ sở còn làm phải sáng tạo, đổi mới về hình dáng, màu sắc, nét vẽ để đáp ứng nhu cầu. Heo đất nguyên bản xưa kia trở nên khan hiếm, khó tìm.
|
Công đoạn tách khuôn cho heo đất |
Tương tự bà Xuân, vợ chồng ông Thổ cũng đang sống với nghề làm chậu cảnh. Ông bảo con cái lo cho gia đình riêng còn chưa vững nên hai người già tự lo sống qua ngày. Làm chậu theo ông đỡ cực và có đồng ra đồng vào, ít bị thâm vốn như làm heo đất. Đi vào một góc tủ giăng đầy mạng nhện có dăm con heo đất bám bụi nằm chỏng chơ, lăn lóc, ông Thổ nói: “Đây là mấy con heo đất còn sót lại hồi đó, thấy bỏ cũng uổng nên cứ giữ lại cho tới giờ, dù gì nó đã từng gắn bó với mình bảy năm”. Đồng cảnh với bà Lý Xuân, hai vợ chồng ông nghĩ khi mình mất rồi thì nghề cũng đi theo, con cái không ham thích làm chậu, heo đất lại càng không. Bà Liên trầm ngâm bảo: “Mình chỉ là tầng lớp lao động bình dân nên không nghĩ sâu xa chuyện làm heo đất là nét đẹp văn hóa cần gìn giữ gì đó, nhưng thấy nghề bị bỏ rơi kể cũng buồn và xót xa”. Lưu luyến, tiếc nuối là cảm giác chung của những người trong cuộc trước sự phai mờ của làng nghề heo đất. Đã rơi rụng, hao hụt dần từ nhiều năm trước và giờ đây sắp biến mất. Nhiều gia đình vẫn có thói quen bỏ ống tiết kiệm nhưng đa phần đều chọn heo nhựa vì nhẹ, không vỡ và dễ lấy tiền ra. Bắt mắt hơn là các loại đựng tiền với đủ chủng loại hình trái cây, con vật rực rỡ, lấn át những con heo đất vừa nặng vừa quê. Vì thế, heo đất làm ra bây giờ chủ yếu bán ở các vùng nông thôn xa xôi, nơi mà chúng “còn” được thiếu nhi đón nhận vì vừa với túi tiền.
|
Một nhà từng làm heo đất tại Lò Chén giờ bỏ trống |
Theo chỉ dẫn của người địa phương, chúng tôi tìm đến nhà bà Lê Thị Muội, 50 tuổi là hộ duy nhất còn làm heo đất ở đây. Bà gắn bó với công việc đã 15 năm và có người em trai út cùng phụ giúp. Trung bình mỗi ngày cho ra 200 con heo đất. Chia sẻ lý do vẫn cầm cự với nghề trong khi các gia đình xung quanh đã chuyển sang làm chậu, bà giải thích: “Làm heo đất tuy cực nhưng dẫu sao cũng đã quen trong nhiều năm. Già rồi, giờ kiếm miếng cơm cho ấm bụng chứ không còn đủ sức để bon chen chuyển nghề nữa. Làm giàu làm có gì nghề lao động chân tay này!”. Vừa nói bà vừa gỡ các khuôn ra rồi vạch một đường trên con heo làm chỗ bỏ tiền. Bà bảo mấy năm trước heo đất còn được ưa chuộng nên làm thấy phấn khởi, còn gần đây hàng ế và bị tồn khá nhiều, nhưng khi nào không còn khả năng làm hoặc không ai đặt hàng nữa mới thôi làm heo đất. Để giữ cái nghề, không làm cho nó bị xóa sổ, bà chỉ mong có cách nào khuyến khích người dân dùng heo đất như trước. Thật dễ mà cũng thật khó. Trán nhễ nhãi mồ hôi, cả người lấm lem đất sét dưới nắng để phơi heo nhưng bà vẫn miệt mài, chăm chú. “Công việc nó cứ đều đều, dễ nhàm chán nhưng nhiều lúc nhìn mấy con heo thấy cũng dễ thương, một ngày không làm thấy thiếu thiếu gì đó, chắc vì quen rồi”, bà nhỏ nhẹ.
|
Lò nung cũng trỏng trơ |
Rời khỏi Lò Chén lúc xế chiều, chúng tôi vừa hụt hẫng trước sự tàn lụi của nghề làm heo đất, vừa nhen nhóm niềm hy vọng có người níu kéo được công việc này. Heo đất ngày xưa đã chẳng từng gắn bó với tuổi thơ của mình đó sao!
Giáng Hương
Bình luận