Khi độc giả đang đọc bài báo này, cũng là lúc linh mục Anphong Phạm Gia Thụy - người mà nhiều người vẫn gọi thân thương là “ông cha của tù nhân Côn Ðảo” - đã an nghỉ trong Chúa được ít ngày. Có thể nói, trong những hoàn cảnh rất đặc biệt, cha đã thể hiện thật mãnh liệt tinh thần yêu thương Kitô giáo để phục vụ tha nhân, và khắc họa rõ nét gương mặt Ðức Giêsu - Thiên Chúa của tình yêu.
Lúc sinh thời, trong những lần chia sẻ về cuộc đời mình, về những chọn lựa và hành trình mục vụ, cha Thụy vẫn nhắc về Côn Đảo như một niềm thương khó phai.
Năm 1962, thầy Anphong Phạm Gia Thụy lãnh tác vụ linh mục tại Tu viện DCCT Sài Gòn, sau đó là những ngày tháng tham gia đào tạo tu sĩ trong dòng. Một thời gian sau, theo lời kêu gọi của Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình là cần có một linh mục tình nguyện ra Côn Đảo giúp cho những người tù về mặt tinh thần, cha vâng lời bề trên nhận sứ vụ. Ba mươi mấy tuổi, vị linh mục trẻ mạnh dạn xách vali ra biển cả, với hành trang chỉ là vài bộ đồ cũ, mấy chiếc áo dòng, một ít sách vở và một trái tim ấm... Lần đầu tiên đi tàu trên biển, những cơn say sóng vật vã không làm nguôi đi ý chí của người thừa sai từng được đào luyện trong môi trường ngập tràn đức tin và tinh thần phụng sự.

Từ 1971 đến 1976, cha là cha sở họ đạo Côn Sơn, đây cũng là giáo xứ duy nhất ngài coi sóc trong suốt sứ vụ linh mục đời mình. Cha Thụy đến Côn Đảo còn trong vai trò là ủy viên của Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam, để yêu cầu trại giam thực hiện những chế độ nhân bản cho tù nhân nơi đây. Ngài nhanh chóng hòa nhập vào đời sống ở Côn Đảo, dù bước đầu không tránh khỏi những khó khăn, bỡ ngỡ. Cũng dễ hiểu, từ một người từ nhỏ gắn với trường lớp, nhà dòng, dạy học và những buổi thuyết giảng…, giờ đây, ngài phải tự túc toàn bộ, phải làm quen với cái nắng cái gió giữa biển khơi, và cả học cách kéo lưới, đập vỏ bàng lấy hột… Tất cả, không ngoài mục đích là sống đích thực cùng người bản địa, lẫn làm bạn với những tù nhân, và nhất là tìm cách hỗ trợ họ bằng chính bàn tay, khối óc và sức lao động của mình. Những người tù Côn Đảo ngày ấy - phần lớn là tù chính trị hoặc tù án nặng - vẫn nhớ hình ảnh vị linh mục mộc mạc hằng ngày vào thăm hỏi họ, lúc thì đem theo ít cá tôm vừa chài được ngoài biển, gởi nhà bếp thêm vào khẩu phần người tù vốn không nhiều dinh dưỡng; khi lại dúi vào tay anh em một ít hạt bàng cha đã tỉ mẫn ngồi đập từng trái lấy hạt đem phơi rồi rang, để họ có thể giã dùng như muối mè muối đậu mà ăn cơm. Ngoài ra, cha còn giữ vai trò như một người trung gian để giúp đỡ tù nhân, bằng cách mang giúp quà bánh của người thân gởi vào; lắng nghe, chia sẻ những thao thức của một người đang trong tình trạng mất tự do; đề xuất các giải pháp với nhà giam để người đang thụ án có đời sống tinh thần lẫn vật chất đỡ chật vật hơn; cũng như làm lễ cho những người tù Công giáo qua đời… Chẳng mấy chốc, cha đã trở thành người bạn đáng tin cậy, đáng trân trọng của mọi người... Sau này, mỗi lần nhắc về những kỷ niệm xưa, khi được hỏi lý do cha đã dấn thân miệt mài, không ngơi nghỉ trong những ngày tháng đó, nhất là ở một không gian vô cùng nguy hiểm là chăm sóc cho những người tù chính trị đối lập với chính quyền thời bấy giờ, cha nói mình chưa bao giờ có ý nghĩ về “bên này bên kia”, mà chỉ xác tín một điều bản thân là linh mục của Chúa, nên phải thực hiện theo những gì Tin Mừng dạy, là yêu thương hết thảy anh em xung quanh, nhất là những người đang lâm vào cảnh ngặt nghèo, mất tự do…
Cha Phêrô Đặng Duy Linh, chánh xứ Côn Sơn hiện tại kể, những người giáo dân lớn tuổi ở Côn Đảo đến nay vẫn còn nhớ mồn một về một vị linh mục giản dị, giàu tình yêu thương, nhớ về cha cố Thụy như hình mẫu của một mục tử tốt lành, tận tụy và nhạy bén, có nhiều sáng kiến giúp đời, giúp người. Một số người khác thì nhắc đến thời điểm năm 1972, khi số người hoạt động cách mạng khu vực miền Trung bị chính quyền đương thời bắt bớ đưa ra Côn Đảo rất đông. Cha Thụy, với uy tín của mình, đã tìm nhiều cách để giúp đỡ họ lương thực, chăm sóc y tế…, và mãi đến sau này, khi hòa bình đã lập lại nhiều năm, các cựu tù vẫn còn nhớ ơn này và hay nhắc lại. Cũng chính nhờ sự mềm dẻo và lòng trắc ẩn sâu đậm trong tình thương Kitô giáo trước người bị tù đày, nên nhiều lần cha đã làm dịu được những tình huống có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của những người tù chính trị.

Những ngày cuối tháng 4.1975, khi tin chiến sự lan ra đến Côn Đảo, có những chuyến tàu, chuyến bay ra Côn Đảo đón người di tản ra hạm đội 7 của Mỹ, cha Thụy vẫn chọn ở lại. Có lần cha từng kể: “Ngày 29.4.1975, máy bay dồn ra Côn Đảo để di tản rất nhiều. Một sĩ quan đã đề nghị tôi đi nhưng tôi đã từ chối. Vì tôi là linh mục, tôi phải lo cho họ đạo ở đây; hơn nữa, vì tôi là người Việt Nam, tôi phải ở lại quê hương tôi”. Khi chính quyền lâm thời tại Côn Đảo được thành lập, đồng thời một ủy ban hòa giải hòa hợp dân tộc tỉnh Côn Sơn gồm 15 người cũng ra đời. Linh mục Phạm Gia Thụy đã được tín nhiệm đề cử làm chủ tịch lâ m thời ủy ban này, mục đích là làm người đứng giữa kéo gần khoảng cách hai bên, để hiểu nhau hơn, để đồng hành và dựng xây xã hội mới (cha chỉ giữ vai trò này trong khoảng 5 tháng, cho đến khi mọi sinh hoạt đi vào ổn định - NV), và đến giữa năm 1976 thì về lại Sài Gòn.
Như vậy là chỉ trong khoảng 5 năm, từ ý hướng tình nguyện phục vụ ban đầu, vị linh mục bằng lý tưởng đời tu của mình và trong tinh thần một thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế, đã làm một nhịp cầu bắc những yêu thương, gạt qua các định kiến, không vì một động cơ sâu xa nào. Sau khi trở về Sài Gòn, cha dành trọn đời mình cho sứ mạng đào tạo tu sĩ và viết sách (cha có nhiều tác phẩm giá trị như Bạn trẻ - bạn tin gì?, Mầu nhiệm cứu độ - Khai tâm lòng tin Kitô giáo…). Công việc này gần như chiếm hết thời gian còn lại của ngài trên dương thế, cho đến tận những ngày cuối đời.
Xin vĩnh biệt một tu sĩ đã tận hiến cho những giá trị cốt lõi của Tin Mừng. Vĩnh biệt một nhân cách lớn.
VÀI NÉT VỀ LINH MỤC ANPHONG PHẠM GIA THỤY, C.Ss.R Sinh ngày 17.10.1934 tại Kim Bản, Hà Nam. Ngày 13.8.1946: Gia nhập Tiểu Đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội. Năm 1951: Vào Đệ tử viện DCCT Huế. Ngày 16.7.1954: Vào Tập viện DCCT Đà Lạt. Ngày 17.7.1955: Khấn lần đầu trong DCCT Đà Lạt. Ngày 6.1.1962: Lãnh thừa tác vụ linh mục tại Tu viện DCCT Sài Gòn. Từ năm 1962 đến năm 1967: làm Phó Giám đốc Đệ tử viện DCCT Huế. Từ năm 1968 đến năm 1969: làm Phó Giám đốc Đệ tử viện DCCT Chợ Lớn. Từ năm 1969 đến năm 1971: làm Phó Giám đốc Đệ tử viện DCCT Thủ Đức. Từ năm 1971 đến năm 1976: Làm Chánh xứ và Tuyên úy nhà tù Côn Đảo. Từ năm 1976 đến năm 1979: Làm mục vụ tại DCCT Sài Gòn. Từ năm 1979 đến năm 1984: Làm Phó xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - Sài Gòn, kiêm đặc trách Lớp Dự Tập DCCT sống tản mác. Từ năm 1984 đến năm 1986: Làm Giám đốc Học viện DCCT tại Sài Gòn. Từ năm 1986 đến năm 2003: Làm Giám Tập DCCT tại Sài Gòn, kiêm linh hướng Đại Chủng viện Hà Nội và làm Cố vấn Tỉnh Dòng từ năm 1993 đến năm 1999. Từ năm 2003 đến năm 2008: Làm Giám đốc Học viện DCCT kiêm Cố vấn Tỉnh Dòng. Từ năm 2008 đến nay: Làm thành viên DCCT Sài Gòn. Vào lúc 3g45 ngày 09.11.2024, cha Anphongsô Phạm Gia Thụy đã được Chúa gọi về với Người, sau 90 năm làm con Chúa trên dương thế, 69 năm sống lời khấn Dòng và 62 năm trong thừa tác vụ linh mục. |
MINH HẢI
Bình luận